Tội phạm là gì và có mấy loại tội phạm?
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, tồn tại từ lâu trong lịch sử loài người và ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng hơn trong thời đại ngày nay. Sự phát triển của xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, trong đó có vấn đề gia tăng tội phạm. Tội phạm không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến trật tự an toàn xã hội, lòng tin của người dân và sự phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết dưới đây của Meta Law cung cấp cho bạn những thông tin pháp lý cần thiết liên quan tới định nghĩa tội phạm, phân loại tội phạm.
1. Định nghĩa tội phạm:
Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13 áp dụng 2024 mới nhất, tội phạm được định nghĩa như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật hình sự phải bị xử lý hình sự”.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
2. Các yếu tố cấu thành tội phạm:
Thứ nhất, khách thể:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ vào khách thể của tội phạm để nhà làm luật quy định các tội phạm nào là gây ra hậu quả còn tội phạm nào là đe dọa gây ra hậu quả.
Thứ hai, chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm là con người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi xâm phạm đến khách thể của tội phạm, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm, mà chỉ những người hoặc pháp nhân thương mại nhất định mới là chủ thể của tội phạm.
Nếu là con người thì phải ở độ tuổi nhất định, độ tuổi bao nhiêu là do nhà làm luật quy định trong BLHS. Bộ luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13 quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm.
Người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13 có quy định khác.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều: Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy); Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) và Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Thứ ba, mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của bên ngoài tội phạm. Mặt khách quan bao gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả và các yếu tố khác như thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng để thực hiện tội phạm. Trong các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là yếu tố quan trọng nhất, vì về lý luận, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, còn các yếu tố khác chỉ có ý nghĩa bổ sung làm ảnh đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nguy hiểm cho xã hội
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Các quan hệ đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra không đáng kể thì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là hành vi phạm tội. Ví dụ: Trộm cắp tài sản có giá trị chưa đến 2 triệu đồng mà chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích thì không bị coi là tội phạm. Dù là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng hành vi đó không được quy định trong BLHS thì cũng không phải là hành vi phạm tội.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại khi thực hiện hành vi phạm tội hay còn gọi là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội, trong đó lỗi là yếu tố quan trọng nhất.
Lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý của một người hoặc của một pháp nhân thương mại đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Cố ý phạm tội là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung trên chúng ta có thể hiểu đó là hai hình thức lỗi: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Vô ý phạm tội là người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Tuy không quy định rõ các hình thức vô ý phạm tội, nhưng căn cứ vào nội dung trên, chúng ta thấy rõ có hai hình thức vô ý phạm tội mà khoa học luật hình sự gọi là “vô ý vì quá tự tin” và “vô ý vì cẩu thả”.
– Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
– Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Ví dụ: Một người lái xe vượt qua đường sắt, đã thấy đèn báo hiệu có tàu nhưng vì cẩu thả cứ lái xe băng qua nên gây tai nạn làm nhiều người thương vong.
3. Phân loại tội phạm:
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự, Điều 12 BLHS quy định tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
+ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
– Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13 và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13.
Những bài viết bạn có thể quan tâm:
ĐỊNH TỘI DANH TRỘM CẮP TÀI SẢN
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn bị xử lý như thế nào?
Nếu bạn vẫn còn những thắc mắc hay cần tìm hiểu thêm về Tội phạm là gì và có mấy loại tội phạm? hãy liên hệ ngay đên Hotline của Văn phòng Luật sư Meta Law – 0869.898.809. Đội ngũ Luật sư tại Meta Law luôn sẵn sàng tư vấn và hỗ trợ bạn.

META LAW SẴN SÀNG TƯ VẤN
Nếu bạn đang cần tư vấn pháp lý, hãy đặt câu hỏi. META LAW luôn sẵn sàng tư vấn và sẽ gọi lại cho bạn sau ít phút...