Quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự
Trong hoạt động xét xử, Tòa án ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự nhằm thể hiện sự công bằng cho các bên đương sự, thượng tôn pháp luật, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp, Tòa án đều ban hành bản án, quyết định đúng đắn, hợp pháp. Vì vậy đặt ra cơ chế xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhằm đảm bảo tính khả thi, hợp pháp của các bản án, quyết định sai lầm đó. Ở Việt Nam, thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp lực gồm giám đốc thẩm và tái thẩm. Hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự đều không giải quyết nội dung vụ án mà chỉ xem xét tính hợp pháp của việc áp dụng pháp luật và đánh giá những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung cơ bản của vụ án.
Nội dung chính:
1. Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Giám đốc thẩm là giải pháp giúp Tòa án cấp trên khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới trong việc giải quyết vụ việc dân sự, qua đó đảm bảo cho bản án/quyết định của Tòa được đúng đắn và có tính khả thi. Việc xét lại bản án/quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo sự công bằng, tinh thần thượng tôn pháp luật, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước qua đó giúp ổn định xã hội.

1.2. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Theo Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, quy định những chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm:
“ 1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.”
Để tránh việc một bản án/quyết định bị kháng nghị tràn lan và đề cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong hoạt động xet xử, thẩm quyền kháng nghị chỉ thuộc về người đứng đầu Tòa án hoặc Viện kiểm sát nhân dân cấp cao/ tối cao. Ngoài ra, tránh việc một bản án hoặc quyết định bị kháng nghị bởi nhiều chủ thể, trên thực tế Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ tiến hành kháng nghị dựa trên những nguồn thông tin sau:
- Đơn đề nghị của đương sự theo Điều 328 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
- Thông báo của Tòa án, Việt kiểm sát hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác theo Điều 329 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:
- Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị (trong thời gian kháng cáo, kháng nghị) theo thủ tục phúc thẩm
- Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật; quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Theo Điều 326 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
Một là, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, Tòa án đánh giá sai về các tình tiết của vụ việc, việc giải quyết vụ án không đúng bản chất, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, gây ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
Ba là, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc Tòa án ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Vì vậy cần xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Một vấn đề cần lưu ý, đó là thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án và các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được tiến hành trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo Điều 334 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
“1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
b) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.”
1.3. Thẩm quyền xét xử, phạm vi xét xử giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Thẩm quyền giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 337 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như sau:
- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 3 thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị, trong đó hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 5 thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa;
- Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm;
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án;
- Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Mục đích của việc thực hiện thủ tục giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nếu có những sai phạm sẽ kịp thời khắc phục và sửa chữa. Vì vậy, về nguyên tắc, phạm vi xét xử giám đốc thẩm là toàn bộ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định rõ về phạm vi xét xử giám đốc thẩm như sau:
“1. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
2. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.”
2. Thủ tục tái thẩm trong tố tụng dân sự
2.1. Khái niệm, ý nghĩa của thủ tục tái thẩm trong tố tụng dân sự
Theo Điều 351 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.”
Như vậy, tái thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện ra những tình tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và những người tham gia tố tụng khác không biết khi Tòa giải quyết vụ án đó.
Cả thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự đều là những thủ tục tố tụng đặc biệt. Vậy nên, giám đốc thẩm và tái thẩm đều có những ý nghĩa tương tự nhau, hạn chế những sai lầm trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp. Công tác tái thẩm và giám đốc thẩm còn có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động lập pháp. Qua việc thực hiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phát hiện ra những mâu thuẫn và bất cập trong hệ thống pháp luật, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ những điều luật không phù hợp, thay thế bằng những văn bản pháp luật mới. Ngoài ra, thông qua thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn các Tòa cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết những kinh nghiệm xét xử; giúp Tòa tối cao bồi dưỡng, đào tạo các chức danh tư pháp, đảm bảo cho các yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử.
2.2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng dân sự
Theo Điều 354 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định những chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm như sau:
1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
3. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.”
Cũng giống như thủ tục giám đốc thẩm, đối tượng kháng nghị của thủ tục tái thẩm là những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có căn cứ tái thẩm hoặc quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Sự khác nhau cơ bản giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự xuất phát từ căn cứ kháng nghị. Căn cứ kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 352 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
- Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
- Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.”
Đối với thủ tục tái thẩm, Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm (Theo Điều 355 Bộ luật tố tụng dân sự)
2.3. Thẩm quyền xét xử, phạm vi xét xử tái thẩm trong tố tụng dân sự
Tương tự như thủ tục giám đốc thẩm, thẩm quyền xét xử tái thẩm được quy định như sau:
- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 3 thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị, trong đó hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 5 thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ kháng nghị tái thẩm là tình tiết quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án nên nếu có căn cứ kháng nghị thì Hội đồng xét xử tái thẩm có quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu căn cứ kháng nghị không được chấp nhận. Còn trường hợp căn cứ kháng nghị được chấp nhận thì Hội đồng xét xử tái thẩm ra một trong hai quyết định sau:
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định.
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Cả giám đốc thẩm và tái thẩm đều là 2 thủ tục xét lại bản án để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án. Vì vậy, tái thẩm cũng giống như giám đốc thẩm, về nguyên tắc phạm vi xét xử tái thẩm cũng là toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, hiện nay, để nâng cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và khác phục những sai sót của Tòa án cấp dưới, pháp luật quy định Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định của Tòa đã có hiệu lực pháp luật mà không bị kháng cáo kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung bị kháng nghị nếu phần quyết định đó xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích của người thứ 3 không phải đương sự của vụ án.
Bạn đọc quan tâm:
3. So sánh thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự
3.1 Điểm giống nhau giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự
- Cả hai đều là thủ tục tố tụng đặc biệt, đều không phải cấp xét xử thứ 3.
- Là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, không giải quyết nội dung vụ án.
- Chỉ những người có thẩm quyền mà luật tố tụng dân sự quy định mới có quyền kháng nghị.
- Thẩm quyền xét xử thuộc về Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Tòa án nhân dân tối cao, tùy thuộc vào cấp của bản án, quyết định bị kháng nghị.
- Hệ quả pháp lý: Tòa án có thể ra quyết định hủy, sửa hoặc giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
3.2 Điểm khác nhau
Tiêu chí | Thủ tục giám đốc thẩm | Thủ tục tái thẩm |
Khái niệm | Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trong việc giải quyết vụ việc dân sự. | Tái thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện ra những tình tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và những người tham gia tố tụng khác không biết khi Tòa giải quyết vụ án đó. |
Tính chất | Điều 325 Bộ luật tố tụng dân sự: xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trong việc giải quyết vụ việc dân sự | Điều 351 Bộ luật tố tụng dân sự: xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện ra những tình tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và những người tham gia tố tụng khác không biết khi Tòa giải quyết vụ án đó. |
Căn cứ kháng nghị | Điều 326 Bộ luật tố tụng dân sự: a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. | Điều 352 Bộ luật tố tụng dân sự: 1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; 2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ; 3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; (cố ý) 4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ. |
Chủ thể kháng nghị | Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự: 1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. | Điều 354 Bộ luật tố tụng dân sự: 1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. 3. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm. |
Thời hạn kháng nghị | Điều 334 Bộ luật tố tụng dân sự: 3 năm kể từ ngày bản án quyết định có hiệu lực pháp luật. Nếu thuộc các điều kiện theo Khoản 2 Điều 334 Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị: | Điều 355 Bộ luật tố tụng dân sự: 1 năm kể từ ngày người có thẩm quyền biết được căn cứ kháng nghị |
Thẩm quyền của hội đồng xét xử | Điều 343 Bộ luật tố tụng dân sự: 1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; 2. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; 3. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; 4. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án; 5. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. | Điều 356 Bộ luật tố tụng dân sự: 1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; 2. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định; 3. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. |
Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng dân sự tuy không phải là một cấp xét xử nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng và hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án. Giám đốc thẩm giúp khắc phục những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng. Tái thẩm là thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án. Cả hai thủ tục đều góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp và bộ máy nhà nước.

META LAW SẴN SÀNG TƯ VẤN
Nếu bạn đang cần tư vấn pháp lý, hãy đặt câu hỏi. META LAW luôn sẵn sàng tư vấn và sẽ gọi lại cho bạn sau ít phút...