Dấu ấn META LAW trong hành trình bào chữa cho bị cáo vụ án khai thác đất hiếm

Hoạt động khai thác, tiêu thụ trái phép quặng đất hiếm của Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương đã gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 736 tỷ đồng và khiến hàng chục cán bộ, lãnh đạo vướng vòng lao lý.

Ngày 21/5, Tòa án nhân dân (TAND) TP Hà Nội tuyên án các bị cáo trong vụ án “Vi phạm quy định về thăm dò, khai thác tài nguyên”, “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây ô nhiễm môi trường” và “Buôn lậu” xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương và một số đơn vị liên quan.

Vụ án khai thác đất hiếm – Một vụ án nghiêm trọng thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương

Vụ án khai thác và xuất khẩu trái phép đất hiếm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo xuyên suốt.

Xét xử 27 bị cáo về 6 tội danh

Ngày 12/5, TAND TP Hà Nội sẽ mở phiên tòa sơ thẩm xét xử cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Nguyễn Linh Ngọc và 26 bị cáo trong vụ án Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên; Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; Buôn lậu; Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; Gây ô nhiễm môi trường xảy ra tại Mỏ đất hiếm Yên Phú, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Dương (Công ty Thái Dương) và các đơn vị có liên quan.

Trong số 27 bị cáo, Đoàn Văn Huấn (Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Thái Dương) bị Tòa án đưa ra xét xử về 3 tội danh, gồm: “Vi phạm quy định về thăm dò, khai thác tài nguyên”, “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây ô nhiễm môi trường”, quy định tại khoản 2, Điều 227, khoản 3, Điều 221 và khoản 3, Điều 235 Bộ luật Hình sự.

Nhóm 7 bị cáo là cựu lãnh đạo, nhân viên Bộ TN&MT và Sở TN&MT tỉnh Yên Bái bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, quy định tại khoản 3, Điều 219 Bộ luật Hình sự, gồm: Nguyễn Linh Ngọc (cựu Thứ trưởng Bộ TN&MT); Nguyễn Văn Thuấn (cựu Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản); Hoàng Văn Khoa (cựu Vụ trưởng Vụ Khoáng sản – Tổng cục Địa chất và Khoáng sản); Lê Duy Phương (cựu Chuyên viên chính Vụ Khoáng sản); Hồ Đức Hợp (cựu Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Yên Bái); Lê Công Tiến (cựu Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Yên Bái); Bùi Đoàn Như (cựu Phó Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở TN&MT tỉnh Yên Bái).

Vụ án khai thác đất hiếm - Một vụ án nghiêm trọng thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương
Vụ án khai thác đất hiếm – Một vụ án nghiêm trọng thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương

Bị cáo Nguyễn Văn Chính (Phó Tổng Giám đốc kiêm Kế toán trưởng Công ty Thái Dương) bị đưa ra xét xử về 2 tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”, “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại khoản 2, Điều 227 và khoản 3, Điều 221 Bộ luật Hình sự;

Bị cáo Lưu Anh Tuấn (Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam) bị đưa ra xét xử về 2 tội “Buôn lậu” và “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định khoản 4, Điều 188, khoản 3, Điều 221 Bộ luật Hình sự;

7 bị cáo bị đưa ra xét xử về tội “Buôn lậu”, quy định tại khoản 4, Điều 188 Bộ luật Hình sự gồm: Đỗ Hạnh Hương (Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam); Phạm Xuân Hậu và Phạm Thị Yến (cùng là nhân viên Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam); Nguyễn Thanh Đoàn (Phó Giám đốc Công ty cổ phần Thương Binh Trường Sơn); Vũ Thị Tuyết (lao động tự do); Trần Đức (Giám đốc Công ty TNHH Dương Liễu Logistics); Trần Như Hoàng (nhân viên Công ty TNHH Dương Liễu Logistics).

6 bị cáo bị đưa ra xét xử về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại khoản 3, Điều 221 Bộ luật Hình sự, gồm: Đặng Trần Chí (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Vận tải Hợp Thành Phát); Phạm Thị Hà (Kế toán Công ty TNHH Thương mại Vận tải Hợp Thành Phát); Trương Thị Hiển (Kế toán Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam); Nguyễn Anh Sơn (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Sơn Anh Phú Thọ); Đoàn Hải Nam (Trưởng phòng vật tư Công ty cổ phần thép Hòa Phát Hải Dương); Đỗ Khánh Toàn (Phó Giám đốc Công ty TNHH Atexim).

Bị cáo Lưu Vũ (LIU YU, quốc tịch Trung Quốc) bị đưa ra xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, quy định tại khoản 4, Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Quang Mạnh (Giám đốc điều hành mỏ Yên Phú – Công ty Thái Dương) bị đưa ra xét xử về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”, quy định tại khoản 2, Điều 227 Bộ luật Hình sự.

2 bị cáo thuộc Nhà máy sản xuất, chế biến đất hiếm – Công ty Thái Dương bị Tòa án đưa ra xét xử về tội “Gây ô nhiễm môi trường”, quy định tại khoản 3, Điều 235 Bộ luật Hình sự, gồm: Nguyễn Văn Lai (Phó Giám đốc điều hành xưởng nghiền, tuyển quặng đất hiếm) và Lê Văn Cẩn (Quản đốc xưởng thủy luyện đất hiếm).

Vụ án đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hoạt động khoáng sản

Theo cáo trạng của VKSND tối cao, đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hoạt động khai thác, kinh doanh, xuất khẩu và quản lý Nhà nước về hoạt động khoáng sản. Đoàn Văn Huấn trong vai trò lãnh đạo Công ty Thái Dương đã tổ chức, chỉ đạo khai thác trái phép quặng đất hiếm và quặng sắt tại mỏ Yên Phú (Yên Bái) trong thời gian từ 2019 – 2023.

Số khoáng sản bị khai thác trái phép có tổng giá trị hơn 864 tỷ đồng. Trong đó, bị cáo Huấn cùng đồng phạm đã tiêu thụ được số quặng trị giá hơn 763 tỷ đồng. Nhằm che đậy hành vi sai phạm trên các chứng từ, Đoàn Văn Huấn còn chỉ đạo lập 2 hệ thống sổ sách kế toán, gây thiệt hại hơn 9,6 tỷ đồng tiền thuế cho Nhà nước.

Cơ quan tố tụng xác định, năm 2012, Bộ TN&MT có quyết định giao Thứ trưởng Nguyễn Linh Ngọc được chỉ đạo, giải quyết lĩnh vực địa chất, khoáng sản và phụ trách Tổng cục Địa chất và Khoáng sản – là đơn vị có nhiệm vụ tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cấp Giấy phép khai thác khoáng sản.

Trước đó, năm 2011, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản nhận hồ sơ xin cấp phép khai thác đất hiếm tại mỏ Yên Phú của Công ty Thái Dương nên Nguyễn Linh Ngọc ký báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về việc cấp giấy phép, nêu rõ “hồ sơ đề nghị cấp phép đã đủ điều kiện”.

Do vậy, Văn phòng Chính phủ có công văn giao các bộ chỉ đạo Chủ đầu tư lập dự án đầu tư chế biến sâu đất hiếm, báo cáo đánh giá tác động môi trường… Thủ tướng cũng có chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản.

Theo ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Công ty Thái Dương đã lập Dự án Đầu tư xây dựng tổ hợp chế biến sâu đất hiếm gồm: Nhà máy thủy luyện để chế biến oxit đất hiếm tại Yên Bái và Nhà máy chiết tách – chế biến oxit đất hiếm tại Đình Vũ (Hải Phòng).

Tiêu thụ quặng đất hiếm trái phép, thu lợi bất chính hơn 736 tỷ đồng

Tháng 6/2013, Công ty Thái Dương chính thức được Bộ TN&MT cấp giấy phép khai thác khoáng sản, để khai thác đất hiếm bằng phương pháp lộ thiên tại khu vực xã Yên Phú (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái).

Theo quy định, trước khi khai thác, doanh nghiệp phải chấp hành quy định của Luật Khoáng sản (năm 2010), giấy phép và các quy định có liên quan. Cùng với đó, quặng đất hiếm phải chế biến thành oxit đất hiếm riêng rẽ có độ sạch 99,9%, để cung cấp trong nước và xuất khẩu; còn quặng sắt để cung cấp cho các cơ sở luyện gang thép trong nước.

Tuy nhiên, từ năm 2019 đến năm 2023, với vai trò là Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Công ty Thái Dương, Đoàn Văn Huấn đã chỉ đạo Nguyễn Văn Chính, Phó tổng giám đốc; Nguyễn Quang Mạnh, Giám đốc điều hành mỏ và các nhân viên tiến hành khai thác trái phép khi chưa đủ điều kiện.

Cơ quan tố tụng xác định, doanh nghiệp này không lập thiết kế mỏ và nộp cho Sở TN&MT Yên Bái, nên chưa đủ điều kiện xây dựng, khai thác mỏ, song vẫn tiến hành khai thác trái phép, vi phạm hàng loạt quy định pháp luật có liên quan.

Thêm vào đó, theo dự án khai thác đã được Bộ Công thương thẩm định năm 2013, Công ty Thái Dương sẽ hợp tác với các đối tác Sumitomo Corporation và Shin – Etsu Chemical Co.,Ltd để xây dựng nhà máy chế biến sâu đất hiếm. Song, Đoàn Văn Huấn lại hợp tác với Liu Yu (Lưu Vũ, quốc tịch Trung Quốc) để xây dựng nhà máy thủy luyện.

Hoạt động này không đảm bảo điều kiện chế biến sâu, mà chỉ sơ chế quặng đất hiếm, tạo ra sản phẩm là tổng oxit đất hiếm có độ sạch 18 – 20%, không thể chế biến, chiết tách tinh chế để tạo ra các oxit đất hiếm riêng rẽ có độ sạch 99,9% như điều kiện được nêu trong giấy phép khai thác, vi phạm Chỉ thị 02/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Không những thế, sau khi sơ chế quặng đất hiếm, doanh nghiệp này đã tiêu thụ tinh quặng đất hiếm trái phép; còn quặng sắt cũng được bán cho doanh nghiệp thương mại, không phải là các cơ sở tinh luyện trong nước theo quy định.

Cơ quan điều tra xác định, Công ty Thái Dương đã tổ chức khai thác trái phép quặng đất hiếm và quặng sắt tại mỏ Yên Phú với tổng giá trị gần 865 tỷ đồng, qua đó tiêu thụ trái phép, thu lợi bất chính hơn 736 tỷ đồng. Quá trình khám xét, cơ quan chức năng thu giữ số quặng đất hiếm và quặng sắt còn tồn, chưa được tiêu thụ trị giá hơn 128 tỷ đồng.)

Buôn lậu quặng đất hiếm sang Trung Quốc

Ngoài hành vi khai thác trái phép đất hiếm, các cơ quan tố tụng cũng làm rõ một lượng lớn quặng đất hiếm đã bị một nhóm bị cáo buôn lậu sang Trung Quốc và các nước.

Từ tháng 10 đến 11.2021, ông Lưu Đức Hoa (quốc tịch Trung Quốc) đã mua 2.160 tấn quặng đất hiếm chưa được chế biến sâu với hàm lượng 14 – 17% của ông Huấn. Ông Hoa sau đó chỉ đạo Nguyễn Thanh Đoàn, phó giám đốc Công ty Thương binh Trường Sơn, ký hợp đồng gia công làm giàu tinh quặng đất hiếm. Quặng đất hiếm sau đó được ông Hoa chuyển về Hải Phòng rồi thuê công nhân sản xuất, nâng hàm lượng đất hiếm lên 20 – 30%.

Đáng chú ý, kết quả điều tra xác định ông Hoa còn cho đóng gói đất hiếm đã pha trộn trong các bao bì có sẵn nhãn hiệu là “Bảo Khang Rice, chuẩn cơm mẹ nấu, cơm dẻo mềm thơm đặc trưng”, với mỗi bao 50kg. Sau khi ngụy trang thành công, ông Hoa thuê doanh nghiệp ở Trung Quốc làm thủ tục xuất khẩu hàng hóa. Khi khai báo để xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc đã ghi là “hỗn hợp chất oxalate”, nhưng thực chất là đất hiếm.

Một trong những khách hàng khác mua quặng đất hiếm của ông Huấn là Lưu Anh Tuấn – chủ tịch Công ty Đất hiếm Việt Nam.

Từ năm 2019 – 2023, ông Tuấn mua tổng hơn 3,5 triệu kg quặng đất hiếm hàm lượng TREO (tổng oxit đất hiếm) 18 – 20% của Công ty Thái Dương. Sau đó ông Tuấn chỉ đạo nhân viên chế biến gần 3,5 triệu kg quặng đất hiếm đã mua. Công ty Đất hiếm Việt Nam chế biến được 482.000kg tổng oxit đất hiếm hàm lượng TREO trên 95%.

Sau đó Lưu Anh Tuấn chỉ đạo Đỗ Hạnh Hương (phó tổng giám đốc) cùng hai nhân viên khai báo hải quan gian dối, thực hiện thủ tục xuất khẩu 473.000kg tổng oxit đất hiếm cho 4 công ty nước ngoài ở Nhật Bản, Áo, Trung Quốc với tổng trị giá gần 380 tỷ đồng.

Diễn biến phiên tòa sơ thẩm và lời khai của các bị cáo

Từ ngày 12.5 đến chiều ngày 15.5.2025 tại TAND TP Hà Nội, phiên tòa xét xử 27 bị cáo trong vụ án khai thác, buôn lậu đất hiếm xảy ra tại tỉnh Yên Bái, liên quan đến Công ty Thái Dương và các đơn vị liên quan được diễn ra.

Lời khai của Tổng Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc Công ty Thái Dương

Trình bày trước Hội đồng xét xử (HĐXX) về các hành vi vi phạm của mình, bị cáo Đoàn Văn Huấn thừa nhận, thực tế Dự án khai thác phải hợp tác với đối tác Nhật Bản để xây dựng nhà máy chế biến sâu. Tuy nhiên, sau khi được cấp giấy phép, bị cáo lại tự ý hợp tác với Liu Yu để xây dựng nhà máy thủy luyện, không đảm bảo điều kiện chế biến sâu như điều kiện được nêu trong giấy phép.

Bị cáo Huấn cho rằng, bản thân không “chạy giấy phép”, hay tác động đến cá nhân nào để thúc đẩy quá trình cấp phép, bởi thời điểm những năm 2010, không ai biết đất hiếm là gì, cũng không ai quan tâm đến đất hiếm. “Bị cáo xây dựng từng nhà máy theo quy trình, từng giai đoạn chứ không xây dựng cùng lúc, bởi vì cần công đoạn nào thì mới xây dựng. Bị cáo có làm chứ không phải không làm”, Chủ tịch Công ty Thái Dương khai.

Cũng theo lời khai tại tòa, bị cáo Đoàn Văn Huấn cho rằng, sau khi khai thác được quặng đất hiếm và quặng sắt, bị cáo đã chế biến và bán cho một số đối tác trong nước. “Nhà nước quy định không xuất khẩu đất hiếm khi chưa đạt độ tinh chế 99,9%, chứ không cấm bán trong nước”, bị cáo Huấn nói.

Trước cáo buộc xả hàng trăm ngàn tấn thải thạch cao và bùn thải quặng đuôi từ quá trình thủy luyện quặng, gây ô nhiễm môi trường, Chủ tịch Công ty Thái Dương cho rằng, nhiều hạng mục vẫn còn dang dở, do “đang làm thì bị bắt, chưa làm xong, chứ không phải không làm”.

Bị cáo Huấn khai quá trình hoạt động kinh doanh, giao việc sổ sách, số liệu cho bộ phận kế toán tổng hợp. “Bị cáo có thường xuyên kiểm tra sổ sách kế toán không”, HĐXX hỏi. Bị cáo Huấn nói rằng mình chỉ học lớp 8, nghiệp vụ bị cáo giao hết cho bộ phận kế toán. Bị cáo Huấn nói không nhờ vả tác động đến ai, cũng không chi quà cho ai để được cấp phép và “bản thân đã cố gắng hết sức để thực hiện đúng giấy phép”.

“Theo quy định phải có 2 nhà máy xây xong mới được khai thác hay vừa khai thác vừa xây”, chủ tọa hỏi. Bị cáo Huấn khai nghĩ là phải xong cái này mới làm được cái khác chứ không đủ thời gian làm một lúc. Nói đến đây, bị cáo Huấn khóc và thừa nhận “bị cáo sai rồi”.

Trong khi đó, bị cáo Nguyễn Văn Chính, Phó tổng giám đốc Công ty Thái Dương thừa nhận toàn bộ sai phạm; đồng thời khẳng định, thời điểm nhận chỉ đạo của bị cáo Huấn, bản thân hoàn toàn nhận thức được việc đất hiếm chưa đủ điều kiện để bán.

Lời khai của các bị cáo nguyên là cán bộ nhà nước

Theo cáo trạng, bị cáo Nguyễn Linh Ngọc (cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường), bị cáo Nguyễn Văn Thuấn (cựu Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, nay đã giải thể) cùng một số bị cáo khác được giao nhiệm vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước trong việc thẩm định, cấp giấy phép khai thác quặng đất hiếm. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, bị cáo Ngọc, bị cáo Thuấn cố ý làm trái nguyên tắc, điều kiện cấp phép khai thác cho Công ty Thái Dương.

Mặc dù được cấp phép, nhưng do năng lực tài chính không bảo đảm, Công ty Thái Dương không thể xây dựng Nhà máy thủy luyện tại Yên Bái và Nhà máy tách chiết tại Hải Phòng để chế biến sâu đất hiếm. Từ 2019 – 10/2023, bị cáo Đoàn Văn Huấn (Chủ tịch Công ty Thái Dương) đã chỉ đạo cấp dưới tổ chức khai thác, tiêu thụ trái phép quặng đất hiếm, quặng sắt có tổng trị giá hơn 736 tỷ đồng và xả trái phép hơn 350.000 tấn chất thải ra môi trường.

Sau khi được cấp giấy phép, nhân dịp sinh nhật Nguyễn Văn Thuấn, thì Đoàn Văn Huấn đến gặp và “cảm ơn” 500 triệu đồng. Tại tòa, bị cáo Thuấn thừa nhận hồ sơ của Công ty Thái Dương chưa đủ điều kiện, lẽ ra hồ sơ phải được thẩm định lại, xem xét lại tất cả. “Nhưng lúc đó anh em trình lên, bị cáo không kiểm tra mà ký tờ trình luôn”, bị cáo Thuấn khai.

Giải trình về sai sót này, bị cáo Thuấn nói nguyên nhân do chủ quan, không xem kỹ hồ sơ đã duyệt. Bị cáo Thuấn nói “làm việc theo đúng nguyên tắc, không quen biết hay nhận tác động từ Đoàn Văn Huấn”, nhưng thừa nhận dịp sinh nhật mình năm 2013, Đoàn Văn Huấn có đến chúc mừng bằng một bó hoa và một túi trái cây. Khi khách về, bị cáo Thuấn mở túi ra thì thấy bên trong có 500 triệu đồng. “Tôi giật mình, gọi lại nhưng anh Huấn không nhấc máy. Khi làm việc với CQĐT, tôi đã khai ngay và nộp lại hết”, bị cáo Thuấn trình bày.

Bị cáo Hoàng Văn Khoa (cựu Vụ trưởng Khoáng sản) khai, hồ sơ của Công ty Thái Dương nằm trong số rất nhiều hồ sơ tồn đọng được giao giải quyết khi bị cáo lên làm Vụ trưởng, bản thân bị cáo không theo dõi từ đầu. Theo lời bị cáo Khoa, hồ sơ của Công ty Thái Dương được bị cáo Lê Duy Phương trình lên và nói đã đủ điều kiện. Khi xem xét, bị cáo Khoa “thấy có vấn đề nhưng không theo từ đầu nên không đủ tự tin nói ra, mà ký ngay”.

“Không đủ tự tin sao còn ký?”, chủ tọa truy vấn. Bị cáo Khoa nói “đây là điều bị cáo rất dằn vặt, đau xót” và “hồ sơ của Công ty Thái Dương tồn quá lâu rồi, nếu yêu cầu doanh nghiệp làm lại sẽ rất mất thời gian, sợ mang tiếng nhũng nhiễu này khác…”.

Về phía bị cáo Phương, khai hồ sơ xin cấp phép của Công ty Thái Dương trước đó do chuyên viên khác thẩm định. Sau khi Bộ tạm dừng cấp phép để đợi Luật Khoáng sản mới có hiệu lực, chuyên viên này chuyển công tác. Lúc đó, bị cáo Phương được lãnh đạo phân công thay thế và cuối năm 2012 mới tiếp cận hồ sơ. Quá trình xem xét hồ sơ, bị cáo Phương thấy có thiếu nhưng chỉ báo cáo miệng với bị cáo Khoa, sau đó vẫn trình ý kiến hồ sơ đủ điều kiện để cấp trên ký. “Cái này tôi sai”, bị cáo Phương nói.

Về phía bị cáo Nguyễn Linh Ngọc, nói nếu Công ty Thái Dương thực hiện đầy đủ như giấy phép thì đã không có sai phạm xảy ra. Thời điểm ký giấy phép có sự thay đổi về quy định, khi đó Chính phủ yêu cầu tạm dừng cấp giấy phép.

Tại tòa, bị cáo Ngọc nói không có ai tác động để cấp phép giấy phép, bản thân ông không biết bị cáo Huấn. “Có thể gặp rồi, ở đâu, làm gì thì tôi không nhớ”, bị cáo Ngọc trình bày, đồng thời cho biết, quá trình cấp phép, thủ tục, hồ sơ nhận qua văn thư, nếu có vấn đề gì thì sẽ có ý kiến rồi trả lại.

Bị cáo Ngọc thừa nhận ký giấy phép chưa phù hợp với Luật Khoáng sản; việc truy tố là có cơ sở, vì so sánh quy định pháp luật thì thời điểm đó cấp phép là sai.

Các bị cáo nói lời sau cùng

Nói lời sau cùng trước phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn Huấn, Chủ tịch Công ty Thái Dương đã nói lời cảm ơn Viện kiểm sát đã công tâm, áp dụng chính sách nhân văn cho bản thân bị cáo. Bị cáo Đoàn Văn Huấn xin HĐXX xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất.

Nói lời sau cùng, cựu Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Linh Ngọc thấy rất ân hận và có trách nhiệm một phần đối với việc đã xảy ra.

Đây là bài học đắt giá đối với không chỉ riêng cá nhân bị cáo mà còn dành cho nhiều người đang làm công tác này. Bị cáo Ngọc mong được giảm hình phạt cho bị cáo sớm trở về.

Hầu hết các bị cáo còn lại khi nói lời sau cùng tại phiên tòa đều mong được HĐXX xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, để được hưởng khoan hồng, sớm trở lại với gia đình.

Bản lĩnh, công tâm, khách quan và nhân văn của Viện kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội tại phiên tòa

Các Kiểm sát viên đại diện VKSND TP. Hà Nội đã thể hiện bản lĩnh tự tin, công tâm, khách quan và thận trọng trong quá trình xét hỏi, luận tội, tranh luận và đối đáp với các bị cáo cũng như luật sư. Họ đã chuẩn bị chu đáo, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, đánh giá các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các nội dung liên quan khác để giải quyết vụ án.

Trong quá trình xét xử, các Kiểm sát viên đã tích cực tham gia xét hỏi, đấu tranh nhằm làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời theo dõi, ghi chép đầy đủ nội dung khai báo và trả lời của bị cáo cùng những người tham gia tố tụng khác. Bản luận tội của Viện kiểm sát và phần tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên đều có căn cứ và sức thuyết phục.

Đối đáp lại quan điểm của các luật sư và bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cho biết, sau khi nghe 27 bị cáo tự bào chữa và 38 bản luận cứ của 49 luật sư bảo vệ quyền lợi cho 26 bị cáo, đều khẳng định không có ý kiến tranh luận về tội danh và đánh giá Viện kiểm sát đề nghị hình phạt là nhân văn.

Trong phần tự bào chữa và bào chữa, các bị cáo và luật sư đều đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt dưới mức đề nghị của Viện kiểm sát. Có luật sư đề nghị cho thân chủ được giảm nhẹ bằng thời hạn tạm giam, được trả tự do tại phiên tòa; có bị cáo đề nghị xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát cho rằng, nhóm bị cáo Đoàn Văn Huấn, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Quang Mạnh đã có hành vi khai thác trái phép tài nguyên giá trị trên 864 tỷ đồng và đã tiêu thụ số lượng quặng đất hiếm và quặng sắt có giá trị hơn 736 tỷ đồng, bị truy tố theo khoản 2 Điều 227 tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”, có khung hình phạt tù từ 2-7 năm. Viện kiểm sát khẳng định, hành vi của các bị cáo đã gây hậu quả thiệt hại cho Nhà nước đặc biệt lớn, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, gây bức xúc trong xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát đánh giá, nhìn từ hậu quả của vụ án, có thể thấy được tính nguy hiểm của tội phạm. Tuy nhiên, Viện kiểm sát cũng đánh giá vai trò, ghi nhận việc khắc phục một phần hậu quả của vụ án đối với từng bị cáo và vận dụng các tình tiết giảm nhẹ để đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án cho từng bị cáo, bảo đảm tính khách quan, khoan hồng và nhân văn.

Đối với nhóm bị cáo quản lý Nhà nước phạm tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”, quy định tại khoản 3 Điều 219 có khung hình phạt tù từ 10 đến 20 năm tù. Đại diện Viện kiểm sát khẳng định, với hậu quả gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 736 tỷ đồng là đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của đất nước. Viện kiểm sát quy kết các bị cáo phạm tội theo như cáo trạng, các luật sư đều đồng tình. Như vậy, cho dù có phân tích đến đâu thì các luật sư cũng chỉ nêu đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được giảm nhẹ dưới mức hình phạt Viện kiểm sát đã đề nghị.

Tại phần luận tội, mặc dù hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt tù từ 10 đến 20 năm, nhưng Viện kiểm sát đã đánh giá toàn diện, về bối cảnh, nguyên nhân, đồng thời, áp dụng các quy định của pháp luật, để đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo, mức án cao nhất là 6 năm tù.

Đối với trường hợp bị cáo Bùi Đoàn Như (cựu Phó Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái), Viện kiểm sát đánh giá vai trò thấp nhất trong số các bị cáo thuộc nhóm quản lý Nhà nước nên Viện kiểm sát đã vận dụng, áp dụng khoản 1 Điều 219 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt 24-30 tháng tù. Như vậy, đề nghị của Viện kiểm sát là đảm bảo sự khách quan và nhân văn đối với các bị cáo.

Chủ tịch Công ty Đất hiếm Việt Nam lãnh 16 năm tù, cựu thứ trưởng bị tuyên 3 năm tù

Ngày 21/5, TAND TP Hà Nội tuyên án các bị cáo trong vụ án “Vi phạm quy định về thăm dò, khai thác tài nguyên”, “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây ô nhiễm môi trường” và “Buôn lậu” xảy ra tại Công ty Thái Dương và một số đơn vị liên quan.

Tòa sơ thẩm cho rằng bị cáo Nguyễn Linh Ngọc, cựu Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi trường (TNMT) phải chịu trách nhiệm người đứng đầu; phạm tội không vụ lợi mà vì 2 lý do gồm tin tưởng cấp dưới và tin tưởng Công ty Thái Dương sau khi được ký duyệt sẽ hoàn thiện hồ sơ, yêu cầu bởi hợp tác với đối tác Nhật Bản.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Thuấn, cựu Tổng cục trưởng Địa chất và Khoáng sản Bộ TNMT, bị cáo vi phạm các quy định của Nhà nước khi giúp Công ty Thái Dương có giấy phép khai thác đất hiếm. Sau đó trong một dịp sinh nhật, ông Thuấn được doanh nghiệp này tặng quà 500 triệu đồng nên cần xử lý nghiêm.

Đối với bị cáo Đoàn Văn Huấn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Thái Dương, bị cáo trong vai trò lãnh đạo Công ty Thái Dương đã tổ chức, chỉ đạo khai thác trái phép quặng đất hiếm và quặng sắt tại mỏ Yên Phú (Yên Bái) trong thời gian từ 2019 – 2023.

Số khoáng sản bị khai thác trái phép có tổng giá trị hơn 864 tỷ đồng và trong đó, bị cáo Huấn cùng đồng phạm đã tiêu thụ được số quặng trị giá hơn 763 tỷ đồng. Ông Huấn còn chỉ đạo lập 2 hệ thống sổ sách kế toán, gây thiệt hại hơn 9,6 tỷ đồng tiền thuế cho Nhà nước.

HĐXX nhận định, hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự và an toàn trong quản lý kinh tế về thuế; xâm phạm đến uy tín, danh dự của các cơ quan, tổ chức liên quan, gây thiệt hại thất thoát lãng phí rất nghiêm trọng về nguồn tài nguyên của đất nước; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và việc huy động các nguồn lực xã hội cho sự phát triển của địa phương, của đất nước; gây bức xúc, bất bình trong dư luận xã hội, đòi hỏi phải xử lý nghiêm.

Sau khi xem xét toàn bộ tình tiết vụ án cũng như những diễn biến trên tòa, HĐXX tuyên phạt:

  • Bị cáo Nguyễn Linh Ngọc 3 năm tù về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.
  • Bị cáo Nguyễn Văn Thuấn lĩnh án 5 năm tù với cùng tội danh trên.
  • Bị cáo Đoàn Văn Huấn bị tuyên phạt 14 năm 6 tháng tù về 3 tội: Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và Gây ô nhiễm môi trường.
  • Bị cáo Lưu Anh Tuấn, Chủ tịch Công ty Đất hiếm Việt Nam, với 12 năm tù về tội “Buôn lậu” và 4 năm tù cho tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, tổng hợp 16 năm tù.

Mức án sơ thẩm của các bị cáo còn lại:

Tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí:

  • Hoàng Văn Khoa, cựu Vụ trưởng Khoáng sản, Bộ Tài Nguyên và Môi trường: 42 tháng tù.
  • Lê Duy Phương, cựu chuyên viên chính Vụ Khoáng sản, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài Nguyên và Môi trường: 4 năm tù.
  • Hồ Đức Hợp, cựu Giám đốc sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái: 4 năm tù.
  • Lê Công Tiến, cựu Phó giám đốc sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái: 3 năm tù.
  • Bùi Đoàn Như, cựu Chi cục phó Bảo vệ Môi trường, sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái: 2 năm 6 tháng tù.
  • Tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; Gây ô nhiễm môi trường:
  • Nguyễn Văn Chính, Phó giám đốc kiêm Kế toán trưởng Công ty CP tập đoàn Thái Dương, từ 8 năm 6 tháng tù.
  • Đặng Trần Chí, Giám đốc công ty TNHH thương mại vận tải Hợp Thành Phát, từ 3 năm 6 tháng tù.
  • Phạm Thị Hà, kế toán Công ty Hợp Thành Phát, 24 tháng tù.
  • Trương Thị Hiển, kế toán Công ty Đất hiếm Việt Nam, 20 tháng tù.
  • Nguyễn Anh Sơn, Giám đốc Công ty Thương mại Sơn Anh Phú Thọ, 36 tháng tù treo.
  • Đoàn Hải Nam, Trưởng phòng vật tư Công ty Thép Hòa Phát Hải Dương, 36 tháng tù treo.
  • Đỗ Khánh Toàn, Phó giám đốc Công ty TNHH Atexim: 36 tháng tù treo.

Tội Buôn lậu:

  • Đỗ Hạnh Hương, Phó Giám đốc, Công ty CP Đất hiếm Việt Nam: 6 năm tù.
  • Phạm Xuân Hậu, nhân viên xuất nhập khẩu Công ty CP Đất hiếm Việt Nam: 30 tháng tù.
  • Phạm Thị Yến, nhân viên xuất nhập khẩu Công ty CP Đất hiếm Việt Nam: 4 năm tù.
  • Nguyễn Thanh Đoàn, Phó giám đốc công ty CP Thương binh Trường Sơn: 36 tháng tù treo.
  • Vũ Thị Tuyết, lao động tự do: 36 tháng tù.
  • Trần Đức, Giám đốc Công ty TNHH Dương Liễu Logistics: 36 tháng tù.
  • Trần Như Hoàng, nhân viên công ty TNHH Dương Liễu Logistics: 30 tháng tù.

Tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên:

  • Nguyễn Quang Mạnh, Giám đốc điều hành mỏ Yên Phú thuộc Công ty CP tập đoàn Thái Dương: 3 năm tù.

Tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:

  • Liu Yu (Lưu Vũ), người Trung Quốc, Giám đốc Công ty TNHH HUYHUANG: 7 năm tù.

Tội Gây ô nhiễm môi trường:

  • Nguyễn Văn Lai, Phó Giám đốc điều hành xưởng nghiền thuộc Công ty Thái Dương: 2 năm 6 tháng tù.
  • Lê Văn Cẩn, Quản đốc xưởng thủy luyện đất hiếm thuộc Công ty Thái Dương: 24 tháng tù treo.

Về trách nhiệm dân sự, HĐXX cho rằng Công ty Thái Dương của Đoàn Văn Huấn khai thác số đất hiếm trị giá hơn 763 tỷ đồng. Đối trừ đi các khoản hợp lý, gồm thuế, phí đã nộp cho Nhà nước, bị cáo Huấn phải bồi thường 665 tỷ đồng. Bị cáo Lưu Anh Tuấn phải nộp 233 tỷ đồng khắc phục hậu quả.

Vai trò, cáo buộc bị cáo Phạm Thị Yến và hành trình bào chữa của Luật sư Meta Law

Bị cáo Phạm Thị Yến bị truy tố về tội “Buôn lậu” trong vụ án xảy ra tại Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam. Tuy nhiên, theo quan điểm của Luật sư Mai Văn Xuân – Giám đốc Công ty Luật TNHH Meta Law – người bào chữa cho bị cáo, vụ án đặt ra nhiều vấn đề pháp lý về giới hạn trách nhiệm hình sự của người lao động làm công ăn lương trong mối quan hệ lệ thuộc và thiếu hiểu biết pháp luật.

Nhân viên xuất nhập khẩu trở thành bị cáo tội buôn lậu

Bị cáo Phạm Thị Yến là nhân viên xuất nhập khẩu của Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam (VTRE) từ năm 2017. Trong thời gian làm việc, bị cáo phụ trách công việc trao đổi thông tin kinh doanh, đàm phán giá với đối tác nước ngoài và thực hiện nghiệp vụ mở tờ khai xuất nhập khẩu theo phân công nội bộ.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát, trong giai đoạn từ tháng 4/2020 đến tháng 10/2023, bị cáo Yến đã thực hiện tổng cộng 56 tờ khai hải quan để xuất khẩu mặt hàng “Tổng oxit đất hiếm”, với tổng trị giá gần 370 tỷ đồng. Các tờ khai này sử dụng mã loại hình E62 và mã HS 2846.90.00 – bị xác định là không đúng bản chất hàng hóa, từ đó làm sai lệch thông tin về loại hình và nguồn gốc thực sự của hàng xuất khẩu.

Bị cáo bị truy tố với vai trò đồng phạm giản đơn trong vụ án buôn lậu theo điểm a khoản 4 Điều 188 Bộ luật Hình sự – khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù.

Tuy nhiên, các lời khai và chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy: bị cáo thực hiện hành vi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch HĐQT Lưu Anh Tuấn và Phó Giám đốc Đỗ Hạnh Hương. Bị cáo không có quyền quyết định, không được hưởng lợi và hoàn toàn làm công ăn lương.

Các luật sư tham gia bào chữa tại phiên tòa
Các luật sư tham gia bào chữa tại phiên tòa xét xử vụ án đất hiếm

Luật sư Mai Văn Xuân và chiến lược bào chữa trước đại án

Luật sư Mai Văn Xuân – người được chỉ định bào chữa cho bị cáo Yến – đã tiến hành nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, lời khai và chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra. Trong quan điểm bào chữa, Luật sư Xuân xác định rõ một số nội dung cốt lõi để chứng minh vai trò hạn chế và không có chủ đích phạm tội của thân chủ:

Thứ nhất, bị cáo Phạm Thị Yến không thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội

Theo quy định tại Điều 188 Bộ luật Hình sự về tội “Buôn lậu”, một trong những yếu tố cấu thành quan trọng là mục đích thu lợi bất chính. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy bị cáo Phạm Thị Yến được hưởng lợi tài chính trực tiếp ngoài khoản tiền lương cố định hàng tháng của mình. Bị cáo chỉ là một nhân viên làm công ăn lương, thực hiện các nghiệp vụ theo sự phân công và chỉ đạo của cấp trên.

Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều khẳng định bị cáo không có bất kỳ thỏa thuận hay hưởng lợi riêng nào từ việc thực hiện các tờ khai hải quan gian dối này. Mọi lợi ích thu được từ hành vi này đều thuộc về Công ty Đất hiếm Việt Nam và các cá nhân quản lý cấp cao. Việc bị cáo thực hiện các thao tác nghiệp vụ chỉ đơn thuần là chấp hành mệnh lệnh của người quản lý trực tiếp.

Bà Yến vào làm tại Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam từ năm 2017 đến nay, từ năm 2017 đến đầu năm 2021 bà Yến làm nhân viên xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm trao đổi thông tin về giá, hợp tác kinh doanh với đối tác nước ngoài qua Email, anh Phạm Xuân Hậu làm nhiệm vụ mở tờ khai xuất nhập khẩu. Từ khoảng tháng 4/2021 đến nay bà Yến thay anh Hậu làm nhiệm vụ mở tờ khai xuất nhập khẩu hàng hóa của Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam do anh Hậu nghỉ việc. Khi đó, anh Lưu Anh Tuấn chỉ đạo bà Yến sử dụng các thông tin đã dùng của tờ khai xuất khẩu trước đây để mở tờ khai xuất khẩu.

Bà Yến chỉ nhận lương theo tháng (có sao kê của ngân hàng), ngoài ra không được hưởng bất kỳ lợi ích gì từ việc khai xuất nhập khẩu hàng hóa của Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam.

Do đó, luật sư yêu cầu cần xem xét lại yếu tố “mục đích thu lợi bất chính” trong hành vi của bị cáo Yến. Nếu không chứng minh được mục đích này, thì cấu thành tội “Buôn lậu” đối với bị cáo sẽ không trọn vẹn.

Bên cạnh đó, cần xem xét thêm yếu tố: Bị cáo Yến là nhân viên của Công ty Đất hiếm Việt Nam, tuy nhiên, trong suốt thời gian công tác tại công ty, bị cáo thường xuyên gặp phải tình trạng công ty nợ lương. Mức lương của bị cáo bị giảm từ 10 triệu đồng xuống còn 8 triệu đồng, và đến khi bị bắt, công ty vẫn còn nợ nhiều tháng lương của bị cáo.

Thứ hai, bị cáo Phạm Thị Yến thực hiện hành vi dưới sự chỉ đạo hoàn toàn của cấp trên, chứng minh vai trò giúp sức không đáng kể của bị cáo Yến trong vụ án

Các tài liệu trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo đã làm rõ rằng bị cáo Phạm Thị Yến là một nhân viên không có chuyên môn sâu về nghiệp vụ hải quan. Sau khi người phụ trách trước đó nghỉ việc (bị cáo Hậu – là kỹ sư), bị cáo được giao nhiệm vụ thực hiện các tờ khai xuất nhập khẩu theo sự chỉ đạo trực tiếp và cụ thể của Chủ tịch HĐQT Lưu Anh Tuấn và Phó Giám đốc Đỗ Hạnh Hương. Tờ khai ban đầu là do Hậu khai (tờ khai E62), sau đó bị cáo Yến được bị cáo Tuấn chỉ đạo khai theo mẫu đó, bị cáo Yến không có bất kỳ kiến thức chuyên môn nào về hải quan. Do đó, vị trí của bị cáo Yến hoàn toàn có thể được thay thế bởi người khác.

Bị cáo đã nhiều lần bày tỏ sự thắc mắc và lo ngại về tính pháp lý của việc khai báo mã loại hình và mã hàng hóa không đúng với thực tế, nhưng vẫn phải thực hiện theo yêu cầu của cấp trên. Bị cáo hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo và hướng dẫn của những người có thẩm quyền cao hơn trong công ty.

Việc một nhân viên dưới quyền phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên là một tình huống thường gặp trong môi trường làm việc. Trong trường hợp này, bị cáo Yến, do thiếu kinh nghiệm và chuyên môn, đã thực hiện các hành vi theo sự tin tưởng và chấp hành kỷ luật lao động. Cần xem xét hành vi của bị cáo trong bối cảnh này để đánh giá đúng vai trò và trách nhiệm thực sự của bị cáo trong vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Viện kiểm sát ban đầu đề nghị đề nghị mức án đối với bị cáo Yến từ 5 – 6 năm tù, có 2 tình tiết giảm nhẹ là:

  • Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: Bị cáo đã hợp tác đầy đủ với Cơ quan điều tra, khai báo chi tiết và trung thực về hành vi của mình cũng như những người liên quan, bày tỏ sự hối hận sâu sắc về những sai phạm đã gây ra.
  • Tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả: Bị cáo đã chủ động nộp tiền để khắc phục một phần hậu quả do hành vi của mình gây ra, thể hiện ý thức trách nhiệm.

Luật sư Xuân đã đề xuất các tình tiết giảm nhẹ đáng kể của bị cáo Yến, gồm:

  • Bị cáo Yến là phụ nữ có thai trong giai đoạn tố tụng: Bị cáo Yến mang thai trong khoảng thời gian từ cuối năm 2024 đến tháng 9 năm 2024 thì sinh con, trong khoảng thời gian đó vụ án bị khởi tố. Áp dụng quy định của pháp luật, bị cáo Yến hoàn toàn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là phụ nữ có thai” quy định tại tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
  • Bố bị cáo là người có công với cách mạng (là thương binh): Chị Phạm Thị Yến là con của ông Phạm Công Mạnh sinh năm 1958. Ông Mạnh là người có công với cách mạng, đạt hạng Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, nhiều lần nhận giấy khen trong công tác dưới vai trò Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã Giao Lạc. Ngoài ra, bác ruột của chị Phạm Thị Yến là ông Phạm Hữu Hằng – chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù đày, đạt hạng Nhất Huân chương Kháng chiến; đạt hạng Ba Huân chương Chiến công; hạng Nhì Huy chương Chiến thắng và hạng Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang.

Kết quả hỗ trợ bào chữa

Dù Viện kiểm sát không chấp nhận quan điểm bào chữa bị cáo Yến có thêm tình tiết giảm nhẹ và tiếp tục giữ nguyên đề nghị hình phạt nghiêm khắc, HĐXX sơ thẩm đã đánh giá đầy đủ các lập luận và chứng cứ mà luật sư đưa ra.

HĐXX xác định bị cáo không có vai trò chủ động, có thêm hai tình tiết giảm nhẹ là phụ nữ có thai trong giai đoạn tố tụng và bố bị cáo là người có công với cách mạng.

Kết quả, bị cáo Phạm Thị Yến bị tuyên phạt 4 năm tù giam, thấp hơn đáng kể so với mức án Viện kiểm sát đề nghị (5 – 6 năm tù) và so với khung hình phạt truy tố ban đầu (12 – 20 năm tù). Đây là một kết quả cho thấy hiệu quả trong chiến lược bào chữa của luật sư, đồng thời phản ánh sự công tâm của HĐXX khi phân tích kỹ vai trò cá nhân trong vụ án đồng phạm buôn lậu có yếu tố tổ chức.

Kết luận

Vụ án xảy ra tại Công ty Thái Dương và các đơn vị có liên quan là một trong những loại tội phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội. Việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để cảnh báo, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch và bền vững.

Công ty Luật TNHH META LAW

META LAW SẴN SÀNG TƯ VẤN

Nếu bạn đang cần tư vấn pháp lý, hãy đặt câu hỏi. META LAW luôn sẵn sàng tư vấn và sẽ gọi lại cho bạn sau ít phút...

    Yêu cầu tư vấn





    Chia sẻ bài viết:  
    5/5 - (1 bình chọn)